blogspot
MƯA MÙA THU
Những ngày buồn trên đất lạnh tha phương
nghe cơn gió mùa thu qua ảm đạm
lá vàng rơi xác xơ từng con hẻm
in bóng mình hiu quạnh giữa màn đêm.
Ta bước đi nghe thấm nỗi ê chề
của tuổi trẻ giữa những ngày giông bão
mưa mùa thu tần ngần như giọt lệ
chực chờ rơi trong mỗi giấc mơ về.
Ôi tương lai nghe lạnh những dặm trường
nổi trôi mãi theo giòng đời vô định
người khách lữ tìm chi trên đất lạ
tận bao mùa thu đã não nề qua.
Ta đi tìm con sóng giữa biển khơi
khi trập trùng bao la trong bể cả
sóng ngàn cơn dập lòng ta nghiêng ngã
con sóng nào tìm mãi hỡi ta ơi !
Ngày xưa có người chưa đắc chí
về non cao núi thẳm ngủ ngày qua
ta cũng từng mấy năm trời lận đận
giữa nệm êm mà vẫn mãi trọc trằn.
Có bao giờ lòng ta thôi thổn thức
một hoài mong trong tận đáy lòng mình
muốn đứng giữa đất trời không vướng bận
làm chủ mình trong mỗi mỗi sát na.
Nhưng đã sống trong Diêm phù phải hiểu
một kiếp này đâu thể của riêng ta
còn máu mủ bao đời trong huyết quản
chảy ngàn năm vô thuỷ đến vô chung.
Phải hiểu vậy để dặn lòng như vậy
để sắc son qua cuộc bão giông này
để điềm nhiên với cuộc đời vốn dĩ
có buồn vui, giải thoát lẫn đoạ đày.
Montreal, đêm cuối thu, khi gió lặng mưa ngừng, tháng Mười một, 2022
BẠC TẦN HOÀI
Bạc Tần Hoài
泊秦淮Yên lung hàn thuỷ nguyệt lung sa,
煙籠寒水月籠沙,
Dạ bạc Tần Hoài cận tửu gia.
夜泊秦淮近酒家。
Thương nữ bất tri vong quốc hận,
商女不知亡國恨,
Cách giang do xướng Hậu Đình Hoa.
隔江猶唱後庭花。
Đỗ Mục 杜牧 (803-853)
Đậu thuyền vào bến Tần Hoài
Khói sương lan trên mặt nước lạnh, và ánh trăng lan trên bãi cát,
Đêm, ghé thuyền vào bến Tần Hoài, đậu bên cạnh một quán rượu.
Có người ca nữ, dường như không biết đến nỗi hận mất nước,
bên kia sông, vẫn hồn nhiên hát khúc Hậu Đình Hoa.
Khúc hoang ca
Đêm xuống trên sông chợt nhớ nhà
khói sương mờ ảo lạnh bờ xa
cát vàng một dải lồng trăng cũ
thấp thoáng thuyền mơ dưới bóng ngà.
Tiếng ai văng vẳng vọng âm ba
lâm ly mấy điệu cảm hoài ta
ôi ! kẻ chinh nhân hồn vẫn mộng,
nên đành gác lại khúc hoang ca.
Montreal, đầu thu, tháng Chín, 2022
Trí Như cảm tác
A Mooring on the Ch'in-Huai River
Mist veils the cold stream, and moonlight the sand,
As I moor in the shadow of a river-tavern,
Where girls, with no thought of a perished kingdom,
Gaily echo A Song of Courtyard Flowers.
by Du Mu
translated by Witter Bynner
TIẾC BÁ KỲ
nhưng giặc muôn đời vẫn giặc thôi
tiếc thay võ tướng lầm mưu sự
nên ý lành kia hoá tội đồ.
Montréal, tháng Tám, 2022
Về Bùi Bá Kỳ
Người Minh ngờ viên thổ quan là Hữu tham nghị Bùi Bá Kỳ có bụng khác, bắt đưa về Kim Lăng.
Bá Kỳ (người Phù Nội, Hạ Hồng) vốn là phe Trần Khát Chân, tự xưng là bề tôi trung nghĩa của Nam triều, trốn sang nước Minh, vừa gặp tên Trần vương nguỵ là Thiêm Bình đến trước, người Minh hỏi có biết không, Bá Kỳ trả lời là không biết. Đến khi nhà Minh đưa Thiêm Bình về nước, hỏi Thiêm Bình cần bao nhiêu quân, Thiêm Bình nói: "Chẳng qua vài nghìn thôi, đến đó người ta tự nguyện hàng phục". Bá Kỳ nói rằng không thể được. Vua Minh giận, phế bỏ Bá Kỳ, đem an trí tại Thiểm Tây, Cam Túc. Đến khi Thiêm Bình thất bại, vua Minh gọi Bá Kỳ về ban sắc cho, ân cần hứa hẹn lập con cháu nhà Trần và để Bá Kỳ làm phụ thần, rồi sai Kỳ đi theo quân, nên trao cho chức ấy.
Bá Kỳ không dự với đồng liêu ở nha môn, chỉ ở nhà riêng thu nạp các viên quan cũ bị sa cơ lỡ bước. Bấy giờ [9a] viên thổ hào ở Đông Triều là Phạm Chấn lập Trần Nguyệt Hồ làm vua ở Bình Than, đề cờ chiêu an gọi là Trung nghĩa quân, cho nên người Minh ngờ Bá Kỳ. Sau Trần Nguyệt Hồ bị người Minh bắt, Phạm Chấn bỏ trốn.
(trích Đại Việt Sử Ký Toàn Thư - Bản Kỷ - Quyển IX)
Cáo Nạn Biểu
告難表
臣祖父皆執政大夫,死于國事;臣母陳氏近族,故臣幼侍陳王,臣五品。後隸武節侯陳渴真為裨將。
洪武末年,渴真禦寇東海而賊臣黎季犛父子弒主篡位,屠殺忠良,滅族者以百十數。臣兄弟妻孥亦遭其害。遣人捕臣,欲加誅醢。臣棄軍遠逃,伏處山谷,思詣闕庭,披瀝肝腑。展轉數年,始睹天日。臣竊惟季犛乃故經略黎國耆之子,世事陳氏,竊叨寵榮,及其子蒼,亦蒙貴任。一旦得志,遂成篡奪。更姓易名,僭號改元不恭朝命。忠臣良士疾首痛心。
願興吊伐之師,隆繼絕之義,蕩除姦凶,復立陳氏之後。臣死且不腐。
願效申包胥之忠,哀鳴闕下,惟皇帝垂察。
Dịch âm
Thần tổ phụ giai chấp chính đại phu, tử vu quốc sự; thần mẫu Trần thị cận tộc, cố thần ấu thị Trần Vương, quan ngũ phẩm. Hậu vệ Võ tiết hầu Trần Khát Chân vi tì tướng.
Hồng Võ mạt niên, Khát Chân ngự khấu Đông Hải nhi tặc thần Lê Quý Ly phụ tử thí chúa thoán vị, đồ sát trung lương, diệt tộc giả dĩ bách thập sổ. Thần huynh đệ thê noa diệc tao kỳ hại. Khiển nhân bộ thần, dục gia tru hải. Thần khí quân viễn đào, phục xử sơn cốc, tư nghệ khuyết đình, phi lịch can phủ. Triển chuyển sổ niên, thuỷ đổ thiên nhật. Thần thiết duy Quý Ly nãi cố Kinh lược sứ Lê Quốc Kỳ chi tử, thế sự Trần Thị, thiết thao sủng vinh, cập kỳ tử Thương, diệc mông quý nhiệm. Nhất đán đắc chí, toại thành thoán đoạt. Canh tinh dịch danh, tiếm hiệu cải nguyên bất cung triều mệnh. Trung thần lương sĩ tật thủ thống tâm.
Nguyện bưng điếu phạt chi sư, long kế tuyệt chi nghĩa, đãng trừ gian hung, phục lập Trần thị chi hậu. Thần tử thả bất hủ.
Nguyện hiệu Thân Bao Tư chi trung, ai minh khuyết hạ, duy Hoàng đế thùy sát.
Dịch nghĩa
Tờ Biểu Tờ Cáo Nạn
Cha, ông của thần đều đứng vào hàng đại phu, nắm việc triều chính, đều chết vì việc nước. Mẹ của thần là họ gần của họ Trần, nên từ lúc bé, thần đã được hầu hạ vua Trần, làm quan đến Ngũ phẩm. Sau đó, thần làm tì tướng thuộc bản bộ của Võ tiết hầu Trần Khát Chân.
Đến cuối năm Hồng Võ nhân khi Khát Chân đi chống giặc ở vùng Đông Hải, cha cao tên tặc thần Hồ Quý Ly giết chúa cướp ngôi, tàn sát các bậc trung lương, những người bị giết cả họ kể có đến hàng trăm. Anh, em, vợ, con thần cũng bị chúng sát hại, lại sai người bắt thần định chém đầu muối xác. Thần phải bỏ quân chạy xa, ẩn vào hang núi, nghĩ cách tới cửa khuyết để phơi bày gan ruột. Lặn lội mấy năm mới được trông thấy mặt trời. Thần trộm nghĩ rằng Quý Ly là con của cố Kinh lược sứ Lê Quốc Kỳ, đời đời thờ họ Trần, vì trộm lạm ơn trên, nên đến cả con của y là Hán Thương cũng được giữ chức trách cao quý. Thế mà một khi đắc chí, liền thành kẻ thoán đoạt, cải nguyên tiếm hiệu, thay họ đổi tên, không kính nể gì mệnh lệnh của triều đình, khiến chi các bậc trung thần nghĩa sĩ phải đau lòng nhức óc.
Mong hoàng đế cử đội quân thăm dân, phạt tội với danh nghĩa nối lại giòng họ đã đứt, quét sạch bọn gian hùng, để lập lại con cháu họ Trần, thì thần đây dù chết cũng không nát!
Thần nguyện bắt chước lòng trung của Thân Bao Tư kêu xin dưới cửa khuyết, mong Hoàng đế rủ lòng xét đến.
Nguyễn Đức Vân dịch
Thướng Minh Đế Thi
上明帝詩其一
孤臣忠孝效胥為,
跋涉山川上帝畿。
碎首王墀滂血淚,
仰祈聖主向無疵。
上明帝詩其二
陳事陵夷未可期,
含冤抱恨有天知。
南方臣子懷忠義,
誓國捐驅伐季犛。
Kỳ nhất
Cô thần trung hiếu hiệu Tư vi,
Bạt thiệp sơn xuyên thượng đế kỳ.
Toái thủ vương trì bàng huyết lệ,
Ngưỡng kỳ thánh chúa hướng vô tỳ.
Kỳ nhị
Trần sự lăng di vị khả kỳ,
Hàm oan bão hận hữu thiên thi.
Nam phương thần tử hoài trung nghĩa,
Thệ quốc quyên khu phạt Quý Ly.
Dịch nghĩa
Thơ Dâng Lên Vua Nhà Minh
Bài thứ nhất
Cô thần bắt chước lòng trung hiếu của Thân Bao Tư,
Trèo non lội suối đến chốn kinh đô nhà vua.
Dập nát đầu trước thềm, đầm đìa máu và nước mắt,
Ngước trông Thánh chúa không bắt lỗi lầm.
Bài thứ hai
Việc nhà Trần suy sụp biết ngày nào mới khôi phục được,
Ngậm oan ôm hận chỉ có trời biết.
Phận tôi con nước Nam mang lòng trung nghĩa,
Thề vì nước bỏ mình để đánh Quý Ly.
(trích Tuyển tập thơ văn Lý - Trần)
PHONG CẦM
Phong cầm thử hỏi bao cung bậc
mỗi sắc mỗi thanh một nỗi lòng
khi trong như gió nơi đồng vắng
khi trầm tựa gió đọng ngoài sân.
Thu sang một cánh chim dao dác
về nam nhớ bắc, bắc tìm nam
nghe trời trở lạnh lòng như vội
vọng nhớ về xa gọi một người.
Đôi khi trong mộng chợt bàng hoàng
chẳng biết người chừ ở chốn nao
quê xưa sót lại hiên trăng lạnh
ta hoá làm chim sải cánh tìm.
Bên hiên, trăng vẫn lạnh lùng rơi
mái cũ người thôi đã khuất rồi
chỉ còn cánh mỏng chao đêm vắng
cắp bóng trăng khuya rỏ giọt vàng.
Từng giọt rơi đầy mảnh sân con
loang lại sầu thương của một thời
bóng ai hằng tựa lan can đó
lệ nhỏ theo trăng lấp lánh vàng.
Ôi ! ta nhớ mãi mắt người xưa
những lúc long lanh tựa ngọc huyền
nhưng sầu lỡ vướng đời xuân sắc
nên ngọc cũng tan với đá vàng.
Canh khuya vi vút gió ngoài song
lạnh cánh chim bay lạnh cõi lòng
tình xưa như tiếng phong cầm nhỉ
cứ mỗi mùa sang lại vọng về.
Cảm tác khi đọc bài Cẩm Sắt của Lý Thương Ẩn
Montreal, tháng Bảy mùa trăng, năm Nhâm Dần (2022)
PHẦN ÂM HÀNH
山川滿目淚沾衣,
Phú quý vinh hoa năng kỷ thì ?
富貴榮華能幾時?
Bất kiến chỉ kim Phần thuỷ thượng,
不見只今汾水上,
Duy hữu niên niên thu nhạn phi.
惟有年年秋雁飛。
Khúc hát trên sông Phần
của Lý Kiệu (đời Đường)
Nhìn núi sông tràn đầy trong tầm mắt, khiến rơi lệ thấm ướt cả áo
Thử hỏi phú quý, vinh hoa, có tồn tại được bao lâu ?
Chỉ không thấy vinh hoa phú quý ấy trên mặt nước sông Phần ngày nay mà thôi
Nhưng chỉ có cánh nhạn vẫn hằng năm bay về mỗi khi thu sang.
Ta tìm gì trên con nước cũ
Sông xa bất tận núi cao ngần
nhớ cảnh quê xưa lệ bần thần
người đi tìm kiếm vinh hoa nhỉ
hỏi đã bao năm được những gì ?
Nước sông man mác chảy về đâu
phú quý vinh hoa cũng lặng sầu
chỉ còn cánh nhạn nghìn năm cũ
vẫn nhớ về qua lúc thu sang.
Montréal, chớm thu, tháng Tám 2022
Trí Như cảm tác
Ballad of Fen-yin
by Li Chiao ( 664-713 )Mountains and rivers fill my eyes, tears soak my robes,
Riches, glory, and honor—how long can they endure?
Don’t you see right now, there above the river Fen,
Only the autumn geese, flying by year after year.
Translation by Stephen Owen, in The Poetry of the Early T'ang.
汾阴行
李峤 〔唐代〕
君不见昔日西京全盛时,汾阴后土亲祭祀。
斋宫宿寝设储供,撞钟鸣鼓树羽旂。
汉家五叶才且雄,宾延万灵朝九戎。
柏梁赋诗高宴罢,诏书法驾幸河东。
河东太守亲扫除,奉迎至尊导鸾舆。
五营夹道列容卫,三河纵观空里闾。
回旌驻跸降灵场,焚香奠醑邀百祥。
金鼎发色正焜煌,灵祇炜烨摅景光。
埋玉陈牲礼神毕,举麾上马乘舆出。
彼汾之曲嘉可游,木兰为楫桂为舟。
櫂歌微吟彩鹢浮,箫鼓哀鸣白云秋。
欢娱宴洽赐群后,家家复除户牛酒。
声明动天乐无有,千秋万岁南山寿。
自从天子向秦关,玉辇金车不复还。
珠帘羽扇长寂寞,鼎湖龙髯安可攀。
千龄人事一朝空,四海为家此路穷。
豪雄意气今何在,坛场宫馆尽蒿蓬。
路逢故老长叹息,世事回环不可测。
昔时青楼对歌舞,今日黄埃聚荆棘。
山川满目泪沾衣,富贵荣华能几时?
不见只今汾水上,唯有年年秋雁飞。
Ballad of Fen-yin
Li Chiao
Haven’t you seen in olden days when the western Capital was in full glory,
His Majesty himself made sacrifice to the Earth at Fen-yin.
In the fasting room he spent the night, set out the offering,
Then they rang bells, beat the drums, planted the feathered banners.
The House of Han’s fifth generation, brilliant and bold,
Who banqueted the hosts of spirits, who brought the barbarians to court.
And when the great feast and poem session at Po-liang was over
An edict was made and the Royal Coach went on tour to Ho-tung.
The Governor of Ho-tung himself swept the region clean,
Humbly welcomed the Most High, led the belled palanquin.
Set out as guards, Imperial Armies lined all the roads,
The three River Provinces permitted to watch, their villages emptied.
Banners circled, His Majesty halted on the field where the spirits come down,
Incense was burned, libations offered, to invite a hundred blessings.
The golden tripod’s beauty shone forth its aureate sheen,
The spirits and Earth God shimmered, unfurling their radiance.
Jades were buried, sacrifices spread, the rites were ended,
Then pennons lifted, horses mounted, and He left on the palanquin.
The bends of the river Fen were perfect for excursions,
His oars were of magnolia, his boat of cassia.
Rowing songs hummed softly, painted cormorant prows drifted,
Flutes and drums played mournfully, an autumn of white clouds.
Then joyous banquets were provided and gifts for great princes
Home after home sent men to court, all given meat and wine.
The sounds and the brilliance stirred Heaven, such joy there has never been,
“A thousand autumns, ten thousand years—live as long as South Mountain!”
But since the Son of Heaven went back toward the passes of Ch’in,
The jade-fitted palanquins, gilded coaches never returned again.
The pearled screens and feather fans are silent forever
How can one hold to the dragon’s whiskers that leap from Tripod Lake?
A thousand years of human deeds can vanish in a morning,
The whole world is an emperor’s home, but not the road there.
Where now are their bold manners, their proud spirits?—
Altar fields and palace halls, all covered in weeds.
On the road I met an old man and he heaved a great sigh:
“The way of the world is a whirling ring, not to be fathomed,
Where in the blue brothels long ago they faced the songs and the dances,
Today there is yellow dust clusters of brambles and thorns.”
Mountains and rivers fill my eyes, tears soak my robes,
Riches, glory, and honor—how long can they endure?
Don’t you see right now, there above the river Fen,
Only the autumn geese, flying by year after year.
Translation by Stephen Owen
Tuyệt Mệnh Thi
Huyết khô lệ kiệt hận nan tiêu,
Trường đoạn Hương giang nhật mộ triều.
Ngô đảng tảo thanh cừu lỗ nhật,
Phần tiền nhất chỉ vị nùng thiêu.
(II)
Trùng tuyền yểm lệ kiến Trưng Vương,
Đề huyết thư quyên chỉ tự thương.
Bằng tạ Phật linh như tái thế,
Nguyện thân thiên tý, tý thiên sang.
(III)
Thê lương ngục thất mệnh chung thi,
Hải khoát sa không khốc tự tri.
Tử quốc đáo nùng thiên hữu phận,
Thương tâm quan lũ kỷ nam nhi.
Ấu Triệu Lê Thị Đàn
Những bài thơ tuyệt mệnh
(1)Huyết lệ dầu khan, giận chửa sờn
Chiều hôm tê tái nước sông Hương
Đảng ta khi quét xong quân giặc
Trước nấm mồ em đốt bó nhang.
(2)
Suối vàng gạt lệ gặp Bà Trưng
Máu thắm hồn quyên khóc thảm thương
Lạy Phật, thân này còn hoá kiếp
Tay xin nghìn cánh, cánh nghìn thương.
(3)
Lạnh lùng cảnh ngục lúc quyên sinh
Biển rộng đồng không mình biết mình
Chết với nước non em tốt số
Chạnh lòng tủi hổ lũ trâm anh.
Đặng Thai Mai dịch
Người nữ sĩ
Người nữ sĩ khóc thầm nơi ngục thấtphút quyên sinh lòng thật bơ vơ
trung kiên một dạ tôn thờ
nước non dân tộc ngọn cờ tự do.
Người tử tận đắng đo lần lữa
mộng hoài chinh thắp lửa trong lòng.
Thôi người xin bước thong dong
ta nay xin tạ những dòng cảm thương:
thương khí phách can trường dũng liệt
thương lòng son chí tuyệt hồn trung
xin cho giọt lệ chảy cùng
đưa người giây phút lạnh lùng vấn khăn.
Dòng sông cũ ánh trăng còn sáng
tiếng chuông xưa thanh thản ngân dài
ta xin gửi xuống tuyền đài
nén tâm hương cảm một người hoài trung.
Montréal, tháng Chín, 2021